đã từ lâu, vợt xúc cá đã trở thành vật dụng quen thuộc của nhiều gia đình đồng bào dân tộc Thái ở xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) cũng vì thế mà nghề đan vợt xúc cá ra đời. Trước đây, chỉ do đàn ông đảm nhiệm, nhưng nay, từ trẻ nhỏ đến người già, phụ nữ hầu hết đều biết làm, trở thành nét độc đáo trong đời sống sinh hoạt, tạo thêm nguồn thu nhập, giúp người dân cải thiện đời sống.
Người dân bản Nà Pát, xã Chiềng Khoang (Quỳnh Nhai) đan vợt xúc cá.
Bà con đồng bào dân tộc Thái thường chọn nơi cư trú là nơi có nguồn nước, dòng sông, con suối để thuận lợi cho việc khai hoang đất làm ruộng, trồng lúa. Bà con đã chế tạo ra vợt làm dụng cụ đánh bắt thủy sản ở sông, suối để cải thiện bữa ăn hằng ngày. Qua tìm hiểu được biết, vợt xúc cá có hình túi, mắt vợt nhỏ 0,3 - 0,4cm2, đáy vợt tròn nhỏ khoảng 7cm, miệng rộng 60 - 70cm, được cạp với thanh tre nhỏ uốn thành hình tam giác. Người Thái có câu “Pha trai dêt chương may, chương to, pha nhinh pắn phai, xôn xiếu” dịch nghĩa là “Con trai biết làm thợ, đan lát, con gái làm thổ cẩm, thêu thùa”; những công việc nặng trong gia đình như làm thợ mộc, làm nhà cửa cũng như việc lên rừng lấy vỏ cây po, cây pán làm sợi đan vợt là công việc của người đàn ông. Còn phụ nữ thường gắn với những công việc nhẹ hơn, như: Nuôi gà, trồng rau, nấu nướng, thêu thùa... phục vụ gia đình. Trước đây, nguyên liệu đan vợt được làm từ vỏ cây pán, cây po mọc tự nhiên trong rừng. Vỏ cây có 2 lớp, cạo phần vỏ ngoài lấy phần trong phơi khô, xe thành những sợi nhỏ dẻo, chắc để đan vợt. Cũng bởi công đoạn nặng nhọc này mà trước đây làm vợt xúc cá chỉ do đàn ông đảm nhiệm. Bây giờ người dân không mất nhiều công làm sợi cây po, cây pán nữa mà chuyển sang đan vợt bằng dây dù, bởi sự tiện lợi là có sẵn ngoài thị trường mà vợt làm bằng dây dù ngâm nước được lâu và bền hơn. Chính vì thế, bây giờ phụ nữ và trẻ nhỏ cũng có thể đảm nhiệm công việc làm vợt. Vợt xúc cá dùng để xúc ở các khe suối, bờ ao, sản phẩm thu được thường là tôm, cua, cá... Ngoài ra, khi tháo ao, tháo ruộng, vợt được dùng đặt vào khe nước chảy để hứng tôm, cá. Trong phong tục của đồng bào dân tộc Thái, vợt xúc cá còn được sử dụng trong các lễ cúng bái, lúc tiễn đưa người chết đi chôn cất, khi xong việc dùng vợt khua quanh mộ người chết để “Khék khuon”, “Xỏn khuon” dịch nghĩa là “Gọi hồn” hay “Xúc hồn” người tham gia đưa đám về nhà, không cho đi theo người chết. Việc dùng vợt xúc cá trong tục cúng bái đã trở thành nét văn hóa độc đáo trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Thái.
Đến bản Nà Pát (Chiềng Khoang), hình ảnh đầu tiên bắt gặp là những nhóm bà con trong bản đang tụm ba, tụm năm nơi hiên nhà, sàn nhà, bóng cây với những đôi tay khéo léo, thoăn thoắt luồn những sợi dây dù đan vợt xúc cá. Trò chuyện với tôi, bà Lò Thị Sen, 50 tuổi, là người có thâm niên trong việc đan vợt xúc cá, niềm nở: Tôi biết đan vợt năm 30 tuổi, do mày mò học làm theo đàn ông trong bản. Lúc đầu, chỉ đan vợt dùng trong gia đình, sau thấy nhiều người đến mua nên đan nhiều để bán, đan khoảng 4 - 5 ngày xong 1 cái. Ở đây người già, trẻ nhỏ từ 11 tuổi trở lên đều biết đan vợt xúc cá. Chị Cà Thị Niên tiếp thêm câu chuyện: Tôi học đan vợt cách đây 3 năm, lúc nông nhàn, mọi người thường tụ tập thành nhóm ngồi đan vợt, vừa vui lại có thêm thu nhập.
Gia đình ông Cà Văn Hỏa, bản Ca, với 6 thành viên cũng ngồi quây quần, cặm cụi đan vợt, ông Hỏa bảo: Người dân ở bản này hầu như ai cũng biết đan vợt, mỗi chiếc vợt bán được 50 nghìn đồng. Tranh thủ thời gian rảnh rỗi, gia đình tôi mỗi tháng đan được 10 - 15 cái vợt, có thêm thu nhập phục vụ sinh hoạt gia đình.
Trao đổi với ông Lò Văn Hải, Bí thư Đảng ủy xã, được biết: Khoảng 8 năm trở lại đây, bà con tích cực đan vợt xúc cá, sản phẩm người dân làm ra được khách ở các nơi khác đến đặt mua. Vợt bà con đan chắc, bền nên làm ra đến đâu bán hết đến đấy.
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!